Động kinh là gì? Các công bố khoa học về Động kinh

Động kinh, còn được gọi là co giật, là một tình trạng tăng động cơ của cơ bắp do một số tác động điện tử khó kiểm soát trong não. Đây là một loại rối loạn thần ...

Động kinh, còn được gọi là co giật, là một tình trạng tăng động cơ của cơ bắp do một số tác động điện tử khó kiểm soát trong não. Đây là một loại rối loạn thần kinh và có thể có nhiều nguyên nhân khác nhau, bao gồm các vấn đề di truyền, tổn thương não, bệnh lý não, vi khuẩn hoặc nhiễm trùng, mất nước não do biến chứng hạn chế trao đổi chất, thuốc hoặc chất phụ gia gây ra. Triệu chứng của động kinh có thể làm cho người bị mất ý thức, co giật, run rẩy, mất hồi ức ngắn hạn, sự thay đổi trong hành vi và cảm xúc, và thậm chí gây ra sự loạn nhịp trong chuyển động của người bệnh. Điều trị động kinh thường liên quan đến việc sử dụng thuốc, phẫu thuật hoặc liệu pháp tâm lý tùy thuộc vào nguyên nhân và mức độ của tình trạng.
Động kinh là một tình trạng tạo ra một chuỗi các tác động điện tử không kiểm soát trong não, dẫn đến sự tăng động cơ cơ bắp và có thể làm cho người bị mất ý thức. Tuy nhiên, động kinh có thể có nhiều biểu hiện và triệu chứng khác nhau tùy thuộc vào loại động kinh và vùng bị ảnh hưởng trong não.

Có nhiều nguyên nhân khác nhau có thể gây ra động kinh. Một số nguyên nhân chính bao gồm:

1. Rối loạn di truyền: Một số loại động kinh có thể được kế thừa từ thế hệ cha mẹ. Ví dụ, động kinh do gene thay đổi như động kinh gia đình.

2. Tổn thương não: Động kinh có thể là kết quả của một tai nạn hay chấn thương mà ảnh hưởng đến hệ thống thần kinh. Ví dụ, tai nạn xe cộ hoặc bị đánh vào đầu có thể gây ra động kinh.

3. Bệnh lý não: Một số bệnh lý như viêm não, u não, thoái hóa não, tăng huyết áp, bệnh tiểu đường, bệnh tự miễn và các bệnh kỵ khí có thể gây ra động kinh.

4. Nhiễm trùng: Một số loại nhiễm trùng, như nhiễm toxoplasma gondii, vi khuẩn hoặc virus miễn dịch thấp, có thể gây ra động kinh.

5. Mất nước não: Mất nước não do các vấn đề như tiểu đường, bệnh thận hoặc bất cứ tình trạng nào gây mất cân bằng nước hoặc chất điện giải có thể gây ra động kinh.

Triệu chứng của động kinh có thể khác nhau tùy thuộc vào loại động kinh và mức độ của cơn co giật. Một số triệu chứng chung có thể bao gồm:

1. Co giật: Một phần hoặc toàn bộ cơ cơ bắp của người bị động kinh có thể co giật không kiểm soát.

2. Mất ý thức: Đa phần trường hợp động kinh đi kèm với mất ý thức, mặc dù có thể có trạng thái không mất ý thức hoặc mất một phần ý thức.

3. Hồi phục sau cơn: Sau một cơn động kinh, người bị ảnh hưởng có thể lưỡi run rẩy, mệt mỏi và mất hồi ức ngắn hạn về những gì đã xảy ra.

4. Thay đổi hành vi và cảm xúc: Một số người bị động kinh có thể trải qua thay đổi trong tâm trạng, tư duy và hành vi, bao gồm cả sự lo âu và trầm cảm.

Điều trị động kinh thường tùy thuộc vào nguyên nhân và mức độ của tình trạng. Thuốc điều trị là phổ biến nhất và có thể được sử dụng để kiểm soát và giảm tần số cơn động kinh. Trong trường hợp nghiêm trọng hơn, phẫu thuật có thể được thực hiện để loại bỏ các mảnh tổn thương trong não hoặc điều chỉnh hoạt động điện não. Ngoài ra, liệu pháp tâm lý và thay đổi lối sống cũng có thể được áp dụng để giúp người bị động kinh kiểm soát tốt hơn tình trạng của mình.

Danh sách công bố khoa học về chủ đề "động kinh":

DƯỢC LÝ HỌC VÀ CHỨC NĂNG CỦA THỤ THỂ GLUTAMATE METABOTROPIC Dịch bởi AI
Annual Review of Pharmacology and Toxicology - Tập 37 Số 1 - Trang 205-237 - 1997

▪ Tóm tắt: Khoảng giữa cho đến cuối thập niên 1980, các nghiên cứu đã được công bố chứng minh sự tồn tại của các thụ thể glutamate không phải là kênh cation điều khiển ligan mà được kết nối với hệ thống hiệu ứng thông qua các protein liên kết với GTP. Kể từ những báo cáo ban đầu đó, đã có sự tiến bộ vượt bậc trong việc đặc trưng hóa các thụ thể glutamate metabotropic (mGluRs), bao gồm việc nhân bản và đặc trưng hóa cDNA mã hóa cho một họ gồm tám kiểu thụ thể mGluR, trong số đó có một số loại phân cắt khác nhau. Cũng có sự tiến bộ vượt bậc trong việc phát triển mới các chất chủ vận và chất đối kháng mGluR đặc hiệu cao, và hướng đến xác định vai trò sinh lý của các mGluR trong não động vật có vú. Những phát hiện này có những triển vọng thú vị đối với việc phát triển thuốc và cho thấy rằng các mGluR cung cấp một mục tiêu mới cho phát triển các tác nhân điều trị có thể có tác động đáng kể lên dược lý thần kinh.

#thụ thể glutamate metabotropic #GTP-binding proteins #nhân bản cDNA #chất chủ vận và chất đối kháng #não động vật có vú #dược lý thần kinh
Mở rộng toàn cầu, phát triển và tác động kinh tế của đất chua Dịch bởi AI
Springer Science and Business Media LLC - Tập 171 - Trang 1-15 - 1995
Đất chua chiếm khoảng 30% hoặc 3950 triệu ha diện tích đất không có băng của thế giới và chủ yếu xuất hiện ở hai vành đai toàn cầu nơi chúng phát triển dưới các chế độ độ ẩm udic hoặc ustic. Vành đai phía bắc (khí hậu lạnh và ôn đới) chủ yếu được thống trị bởi các loại đất Spodosols, Alfisols, Inceptisols và Histosols, trong khi vành đai nhiệt đới phía nam chủ yếu được hình thành từ các loại đất Ultisols và Oxisols. Sáu mươi bảy phần trăm đất chua hỗ trợ cho rừng và đất rừng, trong khi khoảng 18% được bao phủ bởi thực vật savanna, đồng cỏ và thảo nguyên. Chỉ có 4,5% (179 triệu ha) diện tích đất chua được sử dụng cho cây trồng nông nghiệp. Một diện tích thêm 33 triệu ha được sử dụng cho các loại cây trồng nhiệt đới lâu năm. Giá trị sản xuất hàng năm ở những khu vực này khoảng 129 tỷ USD. Giá trị của các sản phẩm từ rừng, đất rừng và đồng cỏ vĩnh viễn trên đất chua rất khó để đánh giá. Rừng nhiệt đới và vùng đất ngập nước có vai trò vô giá trong sự cân bằng hệ sinh thái toàn cầu, khu vực và địa phương cũng như vai trò bảo vệ cho thực vật, động vật và nguồn nước. Trong khi đất chua ở vành đai phía bắc ngày càng được bảo vệ và tái trồng rừng, sự khai thác tàn phá gỗ và nông nghiệp dịch chuyển hiện đại lạm dụng đã góp phần vào sự mất mát hơn 250 triệu ha rừng nhiệt đới trong nửa sau thế kỷ này, để lại những vùng rộng lớn đồng cỏ nhân tạo trên đất chua bị xói mòn và thoái hóa nặng nề. Tác giả tin rằng nỗ lực phát triển đất chua cho nông nghiệp và lâm nghiệp agroforestry ở vùng nhiệt đới nên tập trung vào những vùng đất chua đã bị tẩy chay và bỏ hoang. Tuy nhiên, điều này sẽ khó khăn nếu không có sự đầu tư ban đầu đáng kể và công nghệ phù hợp. Một phương pháp phát triển ba bước được đề xuất, có thể giúp ngăn chặn hoặc dừng sự tàn phá hàng năm trên hơn 5 triệu ha rừng nhiệt đới bởi các "nông dân dịch chuyển không truyền thống". Điều này sẽ giúp bảo vệ các hệ sinh thái tự nhiên mong manh trên đất chua nhiệt đới, vốn đang được coi là không thể thiếu cho sự sống trong tương lai trên trái đất.
#đất chua #rừng nhiệt đới #nông nghiệp bền vững #hệ sinh thái #phát triển bền vững
Biểu hiện protein huỳnh quang xanh và đồng vị trí với calretinin, parvalbumin, và somatostatin trong chuột GAD67‐GFP knock‐in Dịch bởi AI
Journal of Comparative Neurology - Tập 467 Số 1 - Trang 60-79 - 2003
Tóm tắt

Neurons GABAergic trong hệ thần kinh trung ương điều tiết hoạt động của các tế bào thần kinh khác và đóng vai trò rất quan trọng trong xử lý thông tin. Để hỗ trợ cho sự phát triển của nghiên cứu về tế bào thần kinh GABAergic, chúng tôi đã sản xuất hai dòng chuột knock-in với decarboxylase acid glutamic–protein huỳnh quang xanh (GAD67-GFP). Mô hình phân bố của các thân tế bào dương tính với GFP giống như tín hiệu lai hóa in situ GAD67 trong hệ thần kinh trung ương. Chúng tôi không phát hiện thấy bất kỳ biểu hiện GFP ngoài vị trí nào trong các tế bào âm tính với GAD67 cũng như không thiếu biểu hiện GFP trong các tế bào dương tính với GAD67 ở hai dòng chuột knock-in GAD67-GFP. Thời điểm biểu hiện GFP cũng đồng thời với biểu hiện của GAD67. Do đó, chúng tôi đã xây dựng bản đồ phân bố GFP trong não chuột knock-in. Hơn nữa, chúng tôi sử dụng chuột knock-in để nghiên cứu đồng vị trí của GFP với NeuN, calretinin (CR), parvalbumin (PV), và somatostatin (SS) trong vỏ não trước. Tỷ lệ các tế bào dương tính với GFP trong các tế bào dương tính với NeuN (neuron vỏ não) là khoảng 19.5%. Tất cả các tế bào dương tính với CR, PV, và SS đều xuất hiện dương tính với GFP. Các tế bào dương tính với CR, PV, và SS phát ra huỳnh quang GFP với các cường độ đặc trưng cho chúng. Tỷ lệ các tế bào dương tính với CR, PV, và SS trong số các tế bào dương tính với GFP lần lượt là 13.9%, 40.1%, và 23.4%. Do đó, ba phân loại tế bào thần kinh GABAergic chiếm 77.4% các tế bào dương tính với GFP. Chúng chiếm 6.5% trong lớp I. Phù hợp với các tế bào dương tính với GFP chưa xác định, có nhiều thân tế bào dạng tròn vừa phát ra huỳnh quang GFP mạnh mẽ được quan sát thấy trong lớp I. J. Comp. Neurol. 467:60–79, 2003. © 2003 Wiley‐Liss, Inc.

#GABAergic neurons #protein huỳnh quang xanh (GFP) #GAD67 #đồng vị trí #calretinin #parvalbumin #somatostatin #thần kinh trung ương #nghiên cứu chuột knock-in
Một Biến Đổi Định Lượng Các Nhân Tố Ảnh Hưởng đến Giảm Hoạt Động Bị Gây Ra Bởi Nhiệm Vụ trong Hình Ảnh Thần Kinh Chức Năng Dịch bởi AI
Journal of Cognitive Neuroscience - Tập 15 Số 3 - Trang 394-408 - 2003
Tóm Tắt

Giảm hoạt động bị gây ra bởi nhiệm vụ (TID) là sự giảm lưu lượng máu khu vực trong khi thực hiện một nhiệm vụ so với trạng thái "nghỉ ngơi" hoặc "bị động". Chúng tôi đã kiểm định giả thuyết rằng TID là kết quả của việc điều chỉnh xử lý tài nguyên bằng cách thay đổi từng bước độ khó của nhiệm vụ trong ba yếu tố: khả năng phân biệt mục tiêu, tốc độ trình bày kích thích, và tải trọng bộ nhớ ngắn hạn. Người tham gia thực hiện một nhiệm vụ nhận diện mục tiêu thính giác trong quá trình hình ảnh cộng hưởng từ chức năng (fMRI), phản ứng với một âm thanh mục tiêu đơn lẻ hoặc, trong các điều kiện tải trọng bộ nhớ ngắn hạn, là các chuỗi mục tiêu. Bảy điều kiện nhiệm vụ (một phiên bản chung và hai cấp độ bổ sung cho từng yếu tố) được luân phiên với "nghỉ ngơi" trong một thiết kế khối. Phân tích hiệp phương sai đã xác định các vùng não mà TID xảy ra. Phân tích phương sai đã xác định bảy vùng (vỏ vân trước trái/giao diện trán trên, vỏ trán giữa trái, gamma trán trước phải, gamma cingulate sau trái và phải, vỏ parieto-occipital sau trái, và precuneus phải) mà mức độ TID thay đổi qua các cấp độ nhiệm vụ trong một yếu tố. Các thử nghiệm tiếp theo chỉ ra rằng với mỗi yếu tố trong ba yếu tố, mức độ TID tăng cùng với độ khó của nhiệm vụ. Những kết quả này nghi ngờ rằng TID biểu thị sự điều chỉnh tài nguyên xử lý từ các vùng mà TID xảy ra đến các vùng liên quan đến thực hiện nhiệm vụ. Tải trọng bộ nhớ ngắn hạn và tốc độ kích thích cũng dự đoán sự ức chế của suy nghĩ tự phát và nhiều vùng não thể hiện TID đã được liên kết với xử lý ngữ nghĩa, hỗ trợ các tuyên bố rằng TID có thể một phần là do sự đình chỉ của các quá trình ngữ nghĩa tự phát xảy ra trong khi "nghỉ ngơi" (Binder và cộng sự, 1999). Khái niệm rằng trạng thái "nghỉ ngơi" điển hình thực ra là một điều kiện đặc trưng bởi hoạt động nhận thức phong phú có ý nghĩa quan trọng đối với việc thiết kế và phân tích các nghiên cứu hình ảnh thần kinh.

Vai trò của estradiol và progesterone trong điều chỉnh mật độ gai thần kinh trên đồi hải mã trong chu kỳ động dục ở chuột Dịch bởi AI
Journal of Comparative Neurology - Tập 336 Số 2 - Trang 293-306 - 1993
Tóm tắt

Chúng tôi đã chứng minh trước đó rằng mật độ gai thần kinh trên các tế bào hình tháp CA1 của đồi hải mã phụ thuộc vào estradiol và progesterone tuần hoàn, thay đổi tự nhiên trong chu kỳ động dục 5 ngày ở chuột trưởng thành. Cho đến nay, chưa có sự mô tả chi tiết nào về vai trò của các hormon này trong việc điều chỉnh mật độ gai thần kinh. Để xác định thời gian và mức độ ảnh hưởng của estradiol và progesterone lên mật độ gai thần kinh, chúng tôi đã phân tích mật độ gai thần kinh trên các nhánh bên của cây đuôi gai đỉnh của các tế bào hình tháp CA1 đồi hải mã đã được nhuộm Golgi trong một số thí nghiệm. Tóm lược, các kết quả của chúng tôi bao gồm: (1) Sau khi cắt bỏ buồng trứng, estradiol tuần hoàn không thể phát hiện trong vòng 24 giờ; tuy nhiên, mật độ gai thần kinh giảm dần trong vòng 6 ngày. (2) Mật độ gai thần kinh không giảm thêm trong khoảng 40 ngày sau cắt bỏ buồng trứng. (3) Điều trị chỉ với estradiol có thể đảo ngược sự giảm mật độ gai thần kinh do cắt bỏ buồng trứng gây ra. (4) Mật độ gai thần kinh bắt đầu tăng trong vòng 24 giờ sau khi tiêm estradiol benzoate ở một con vật đã cắt bỏ buồng trứng, đạt đỉnh điểm vào 2 và 3 ngày, sau đó giảm dần trong khoảng thời gian 7 ngày tiếp theo. (5) Mặc dù estradiol tự do bị chuyển hóa nhanh hơn so với estradiol benzoate, không có sự khác biệt về tốc độ giảm mật độ gai thần kinh sau khi tiêm dưới bất kỳ hình thức nào. (6) Progesterone có tác động hai pha lên mật độ gai thần kinh vì việc điều trị progesterone sau estradiol ban đầu tăng mật độ gai trong khoảng thời gian từ 2 đến 6 giờ nhưng sau đó dẫn đến sự giảm mạnh hơn so với chỉ dùng estradiol. Đến 18 giờ sau khi điều trị progesterone, mật độ gai gần như giảm về mức cắt buồng trứng 6 ngày. (7) Điều trị chuột nguyên vẹn với chất đối kháng thụ thể progesterone, RU 486, trong giai đoạn trước động dục của chu kỳ động dục ức chế sự giảm đột ngột trong mật độ gai thần kinh từ trước động dục đến động dục. Những phát hiện này lý giải cho cả sự tăng dần và giảm nhanh mật độ gai thần kinh mà chúng tôi đã quan sát trước đó trong chu kỳ động dục và chỉ ra rằng progesterone đặc biệt có thể là một yếu tố quan trọng trong việc điều chỉnh những thay đổi hình thái xảy ra một cách tự nhiên trong não người trưởng thành. © 1993 Wiley‐Liss, Inc.

#Estradiol #Progesterone #Mật độ gai thần kinh #Tế bào hình tháp CA1 #Đồi hải mã #Chuột #Chu kỳ động dục.
Estradiol trung gian sự dao động của mật độ khớp thần kinh vùng hồi hải mã trong chu kỳ động dục ở chuột cái trưởng thành Dịch bởi AI
Journal of Neuroscience - Tập 12 Số 7 - Trang 2549-2554 - 1992

Chúng tôi đã phát hiện rằng mật độ khớp thần kinh trong stratum radiatum của vùng CA1 của hồi hải mã ở chuột cái trưởng thành nhạy cảm với sự điều chỉnh của estradiol và dao động tự nhiên khi mức độ của steroid buồng trứng biến đổi trong chu kỳ động dục 5 ngày. Trong cả hai trường hợp, mức estradiol thấp có liên quan đến mật độ khớp thần kinh thấp hơn, trong khi mức estradiol cao có liên quan đến mật độ khớp thần kinh cao hơn. Những thay đổi khớp thần kinh này xảy ra rất nhanh vì trong vòng 24 giờ giữa các giai đoạn proestrus và estrus của chu kỳ động dục, chúng tôi quan sát thấy sự giảm 32% mật độ khớp thần kinh hồi hải mã. Mật độ khớp thần kinh sau đó dường như quay trở lại các giá trị proestrus trong một vài ngày. Theo chúng tôi được biết, đây là minh chứng đầu tiên về tính chất linh hoạt thần kinh ngắn hạn được trung gian hóa bằng steroid xảy ra tự nhiên trong não của động vật có vú trưởng thành.

#estradiol #mao quản hồi hải mã #mật độ khớp thần kinh #chu kỳ động dục #plasticity thần kinh
Tác động của các thực tiễn quản lý nguồn nhân lực đến hiệu suất của các đơn vị kinh doanh Dịch bởi AI
Human Resource Management Journal - Tập 13 Số 3 - Trang 21-36 - 2003

Bài báo này xem xét tác động của các thực tiễn quản lý nguồn nhân lực và sự cam kết tổ chức đến hiệu suất hoạt động và khả năng sinh lợi của các đơn vị kinh doanh. Sử dụng thiết kế dự đoán với mẫu gồm 50 đơn vị kinh doanh tự trị trong cùng một tập đoàn, bài viết chỉ ra rằng cả sự cam kết tổ chức và các thực tiễn quản lý nguồn nhân lực đều có mối liên hệ đáng kể với các chỉ số hiệu suất hoạt động, cũng như chi phí hoạt động và lợi nhuận trước thuế.

Tác động của caffeine và adenosine lên hệ thần kinh trung ương và mệt mỏi Dịch bởi AI
American Journal of Physiology - Regulatory Integrative and Comparative Physiology - Tập 284 Số 2 - Trang R399-R404 - 2003

Việc tiêu thụ caffeine có thể làm chậm sự mệt mỏi trong quá trình tập luyện, nhưng các cơ chế vẫn chưa rõ. Nghiên cứu này được thiết kế để kiểm tra giả thuyết rằng sự phong tỏa của các thụ thể adenosine trong hệ thần kinh trung ương (CNS) có thể giải thích cho hiệu quả có lợi của caffeine đối với sự mệt mỏi. Các thí nghiệm ban đầu đã được thực hiện để xác nhận tác động của caffeine trong CNS và/hoặc chất hoạt hóa thụ thể A1/A2 5′- N-ethylcarboxamidoadenosine (NECA) đến hoạt động tự phát của cơ thể. Ba mươi phút trước khi đo hoạt động tự phát hoặc chạy trên máy tập, các con chuột đực được cho dùng caffeine, NECA, caffeine kết hợp với NECA, hoặc dung môi qua bốn lần được ngăn cách nhau khoảng 1 tuần. Trong hệ thần kinh trung ương, caffeine và NECA (qua đường tiêm trong não thất) đều liên quan đến tăng và giảm hoạt động tự phát, lần lượt, nhưng caffeine phối hợp với NECA không chặn được sự giảm do NECA gây ra. CNS caffeine cũng gia tăng thời gian chạy đến mệt mỏi lên 60% và NECA giảm nó xuống 68% so với dung môi. Tuy nhiên, không giống như các hiệu ứng về hoạt động tự phát, việc dùng trước caffeine đã hiệu quả trong việc phong toả sự giảm thời gian chạy do NECA gây ra. Không có sự khác biệt nào được tìm thấy sau khi sử dụng thuốc ở phía ngoài (qua đường tiêm trong phúc mạc). Kết quả cho thấy caffeine có thể trì hoãn mệt mỏi qua các cơ chế tác động trong CNS, ít nhất là một phần nhờ vào việc phong tỏa thụ thể adenosine.

#Caffeine #Mệt mỏi #Hệ thần kinh trung ương #Thụ thể adenosine #NECA #Hoạt động tự phát #Thời gian chạy #Tập luyện
Một số tác động nhận thức của tổn thương vỏ não trán ở người Dịch bởi AI
The Royal Society - Tập 298 Số 1089 - Trang 211-226 - 1982

Nghiên cứu đối với các bệnh nhân thực hiện phẫu thuật cắt bỏ nửa bên vỏ não trán để giảm cơn động kinh khu trú đã tiết lộ những rối loạn nhận thức cụ thể xuất hiện trong bối cảnh chức năng bình thường trên nhiều nhiệm vụ trí tuệ, cảm nhận và trí nhớ. Các tổn thương xâm lấn vào vùng mắt trán gây ra những suy giảm tinh vi trong việc kiểm soát oculomotor tự nguyện, thể hiện qua việc không thể kìm nén cái nhìn ban đầu vào một kích thích có khả năng gây phân tâm. Sau khi phẫu thuật cắt lobus trán ở bất kỳ bên nào, những khiếm khuyết thường xuất hiện khá nhất quán trong các nhiệm vụ phân biệt vận động (Konorski 1972), trong đó chủ thể phải học cách tạo ra các phản ứng khác nhau cho các tín hiệu môi trường khác nhau được trình bày ngẫu nhiên. Những nhiệm vụ tuần tự có liên quan trực tiếp hơn đến khái niệm lập kế hoạch là những nhiệm vụ mà chủ thể được tự do lựa chọn thứ tự phản ứng của mình, nhưng không được thực hiện một phản ứng giống nhau hai lần. Ở đây, vỏ não trán bên trái đóng vai trò chính, một phát hiện phù hợp với nhận thức về sự thống trị của bán cầu trái trong việc lập trình các hành động tự nguyện. Ngược lại, vỏ não trán bên phải dường như liên quan một cách nghiêm trọng hơn trong việc theo dõi chuỗi thời gian của các sự kiện được trình tự hóa bên ngoài, mặc dù bản chất bằng lời hay không bằng lời của các kích thích vẫn là một yếu tố có liên quan.

#tổn thương vỏ não trán #động kinh khu trú #suy giảm nhận thức #kiểm soát oculomotor #lập kế hoạch #bán cầu não trái #bán cầu não phải
Rối Loạn Tăng Động Giảm Chú Ý và Đối Xứng của Nhân Đuôi Dịch bởi AI
Journal of Child Neurology - Tập 8 Số 4 - Trang 339-347 - 1993

Cơ sở thần kinh của rối loạn tăng động giảm chú ý (ADHD) vẫn chưa được hiểu rõ. Dựa trên các nghiên cứu trước đây đã chỉ ra sự thiếu hụt chuyển hóa trong vùng nhân đuôi - thể vân ở bệnh nhân ADHD, chúng tôi đã sử dụng hình ảnh cộng hưởng từ để điều tra các kiểu hình thái của đầu nhân đuôi ở trẻ em bình thường và trẻ em mắc ADHD. Ở trẻ em bình thường, 72,7% có biểu hiện kiểu đối xứng bên trái lớn hơn bên phải (L > R), trong khi 63,6% trẻ em ADHD có kiểu đối xứng ngược lại (L < R) của đầu nhân đuôi. Sự đảo ngược đối xứng bình thường này ở trẻ em ADHD là do nhân đuôi bên trái nhỏ hơn một cách đáng kể. Sự đảo ngược đối xứng của đầu nhân đuôi nổi bật nhất ở nam giới mắc ADHD. Những kết quả này cho thấy đối xứng hình thái bình thường (L > R) trong vùng nhân đuôi có thể liên quan đến những bất đối xứng được quan sát trong các hệ thống chất dẫn truyền thần kinh bị liên kết với ADHD. Các triệu chứng hành vi của ADHD có thể phản ánh sự không ức chế so với mức độ kiểm soát bán cầu ưu thế thông thường, có thể liên quan đến những sai lệch trong hình thái đối xứng của nhân đuôi - thể vân và sự thiếu hụt trong các hệ thống chất dẫn truyền thần kinh liên quan. (J Child Neurol 1993;8:339-347).

#Rối loạn tăng động giảm chú ý #nhân đuôi #hình thái học #đối xứng #chất dẫn truyền thần kinh
Tổng số: 622   
  • 1
  • 2
  • 3
  • 4
  • 5
  • 6
  • 10